Các bài viết mới nhất

Tại sao tín hiệu ánh sáng đèn trong nhà máy phát điện và trạm biến điện nói chung đều dùng màu vàng màu lục?

Ánh sáng đèn trong nhà máy phát điện

Chúng ta biết rằng, bước sóng mà mắt người có thể cảm nhận được là sóng ánh sáng 0.4 ~ 0.75mm, nhưng bước sóng cảm nhận nhạy nhất là sóng ánh sáng 0.555mm, tương đương với màu lục và màu vàng. Do đó, tác dụng của màu lục và màu vàng đối với con mắt đều lớn hơn các màu khác, cho nên tín hiệu ánh sáng đèn trong nhà máy điện và trạm biến điện đều sử dụng rộng rãi màu lục và màu vàng.
Saturday, January 16, 2021

Tại sao thể tích của bộ ngắt mạch chân không nhỏ mà tuổi thọ sử dụng lại cao?

 Kết cấu của bộ ngắt mạch chân không rất đơn giản, đặt một đôi đầu tiếp xúc vào trong bóng thủy tinh chân không. Do tính năng cách điện, tính năng khử hồ quang của chân không đều rất tốt, có thể khiến khoảng cách mở giữa đầu tiếp xúc động, tĩnh vô cùng nhỏ (loại 10 kV chỉ cần khoảng 10mm, còn khoảng cách mở của đầu tiếp xúc bộ ngắt mạch dầu khoảng 160mm) cho nên thể tích và trọng lượng của bộ ngắt mạch chân không đều rất nhỏ. Do đầu tiếp xúc của rơle chân không, không bị oxy hóa mà lại tắt hồ quang nhanh, đầu tiếp xúc ít bị cháy hỏng, do đó thích hợp dùng ở trường hợp thao tác nhiều, tuổi thọ sử dụng cao gấp khoảng 10 lần bộ ngắt mạch dầu.

Dây tải điện tại sao lại rung và kêu ?

Dây cái cứng của nhà máy điện và trạm biến điện trong khi vận hành bị rung kêu, phần lớn xảy ra trong dây cái hai phiến (hoặc nhiều phiến) cùng pha. Bởi vì trong các dây cái cùng pha, độ lớn và chiều của dòng điện chạy qua giống nhau: Khi dòng điện chạy qua, sẽ sinh ra từ trường quanh mỗi dây cái. Do tác dụng tương hỗ của từ trường và dòng điện trong dây cái khiến hai sợi dây cái chịu lực hút lẫn nhau, lại vì dòng điện chạy qua dây cái là điện xoay chiều 50Hz, trong mỗi nửa sóng khi dòng điện biến đổi từ "không" đến trị số lớn nhất rồi lại giảm xuống đến trị số "không", lực hút giữa hai dây cái cùng biến đổi từ "không" đến trị số lớn nhất rồi lại giảm xuống bằng "không". Nếu phiến điện và cặp giữa khe hở dây cái cặp rất chắc chắn thì tuy chịu lực dây cái cũng không bị rung. Nhưng, thường thường trong quá trình vận hành, cặp dây cái bị rơ lỏng hoặc khoảng cách cặp dây quá xa (nói chung cứ 800-1000mm một cặp) thì dưới tác dụng của lực từ, dây chính sẽ bị rung 100 lần/giây, kèm theo có tiếng kêu chói tai.

Biểu diễn chiều và độ lớn dòng điện qua dây tải điện

Dây cái rung trong thời gian dài không những phát ra tạp âm chói tai còn sẽ làm cho kim loại dây cái bị mỏi, nứt vỡ gây nên sự cố, cho nên cần nhanh chóng loại trừ hiện tượng này.



Thursday, January 14, 2021

Bút thử điện chỉ có một đầu chạm vào vật dẫn điện, tại sao có thể phát sáng ?

 
Kết cấu bên trong của bút thử điện

Bộ phận phát sáng bóng đèn có hai cực. Bóng đèn nạp khí neon, một cực nối với đầu khác của bút thử sau khi đấu nối tiếp với một điện trở điện trở lớn. Khi điện áp giữa hai cực của bóng đèn đạt đến trị số nhất định, giữa hai cực sẽ phát sáng, độ sáng của nó tỉ lệ thuận với điện áp giữa hai cực. Khi điện áp giữa vật mang điện đối với đất lớn hơn điện áp bắt đầu phát sáng của bóng đèn, thì khi chạm một đầu bút vào nó, còn đầu kia qua người nối với đất thành mạch kín, nên có thể phát sáng, tác dụng của điện trở là hạn chế dòng điện chạy qua người nhằm tránh điện giật nguy hiểm.






Sấy ngược xylanh cao áp

1. Các yêu cầu đường ống đi sấy ngược xylanh cao áp

Đường ống gia nhiệt được bố trí gần với van một chiều tái lạnh và được nối với đường tái lạnh. Khoảng cách từ nó tới xylanh cao áp không quá 20m (giá trị theo như kinh nghiệm). Cách bố trí này tránh nước tích tụ trong đường ống.
Sơ đồ sấy ngược xylanh cao áp

2. Quy trình vận hành sấy ngược xylanh cao áp

Hệ thống sấy ngược xylanh cao áp được điều chỉnh trực tiếp bằng van dẫn động bằng động cơ và van điều chỉnh áp suất cao được điều khiển bởi hệ thống điều khiển  D-EHG. Thời gian gia nhiệt cho xylanh cao áp yêu cầu được thể hiện trên hình bên dưới.
Biểu đồ quy trình sấy xylanh cao áp

Điều kiện vận hành hệ thống sấy xylanh cao áp. Hệ thống có thể đưa vào vận hành chỉ sau khi thực hiện những điều sau:

- Bộ vần trục hoạt động.
- Van hơi chính đóng hoàn toàn.
- Áp suất hơi tái nhiệt không thấp hơn 700kPa(g).
- Áp suất bình ngưng không cao hơn 13,2kPa(a).
- Nhiệt độ vách trongcủa vỏ trong xilanh cao áp sau tầng điều chỉnh không cao hơn 150oC.



Monday, August 24, 2020

Hướng dẫn hệ thống MEH

1. Mô tả hệ thống MEH

Cấp điều khiển tự động của hệ thống điều khiển nhà máy điện đã phát triển một cách dần dần, hệ thống điều khiển và bảo vệ không điều chỉnh thích nghi yêu cầu của CCS. Vì vậy MEH đã cho phát triển và sử dụng một cách rộng mở, MEH của DEC cung cấp bộ điều khiển dầu EH của turbine hơi.
Hệ thống điều khiển MEH này được thiết kế bởi DEC. Nó sử dụng phần cứng FOXBORO, và phần mềm của nó được cài đặt theo yêu cầu của người dùng.
Hệ thống MEH dùng dầu chống cháy cao áp như làm việc bình thường, valve servo như thiết bị giao tiếp thủy lực, và cơ cấu chấp hành LCV như là thiết bị thực thi. Nó là một hệ thống được phát triển và nó có thể điều khiển tốc độ của turbine bơm cấp.

2. Nguyên lý vận hành của hệ thống điều khiển MEH

Sơ đồ nguyên lý điều khiển MEH
Có 2 nguồn hơi trong tổ máy. Một là nguồn hơi làm việc, đến từ của trích hơi số 4; một nguồn khác là nguồn hơi dự phòng, đến từ hơi tái nhiệt lạnh. Nguồn hơi làm việc và nguồn hơi dự phòng tất cả đều cùng một nguồn, dưới đây chỉ sơ đồ cho phép nguồn hơi.
Sơ đồ hệ thống cho phép nguồn hơi
Khởi động tổ máy bởi nguồn hơi tự dùng hạ áp. Trong suốt quá trình tổ máy khởi động, hơi đi vào turbine bơm cấp thông qua valve 1 chiều, valve cổng điện, valve stop chính hạ áp, valve governor hạ áp. Khi tải của turbine hơi lớn hơn điểm chuyển đổi của nguồn hơi, điều kiện nguồn hơi làm việc có thể đáp ứng của tải turbine nước cấp, cắt bỏ nguồn hơi tự dùng, vì vậy tất cả các công việc được hoàn thành bởi nguồn hơi làm việc trên điểm chuyển đổi của nguồn hơi, chạy liên tục và ổn định trong vùng tốc độ hoạt động; 2840RPM – 5945RPM, tốc độ tối thiểu có thể giữ điều kiện turbine bơm cấp được tái tuần hoàn lưu lượng tối thiểu. Tất cả tốc độ turbine bơm cấp trên đều được điều khiển bởi governor valve hạ áp. 
Khi turbine giảm tải, thông số nguồn hơi làm việc cũng giảm xuống. Tải turbine giảm xuống từ tải cao đến trên nguồn hơi điểm chuyển đổi, ở chế độ áp suất không đổi, áp suất hơi lò duy trì giống như vậy. Khi tải turbine giảm xuống dưới 40%, tốc độ của turbine bơm cấp phải chắc chắn rằng áp suất hơi lò duy trì như vậy. Khi turbine ở chế độ áp suất thay đổi, áp suất hơi lò sẽ thay đổi với tải, khi tải turbine giảm xuống dưới 30%, tốc độ thấp nhất của turbine bơm cấp sẽ là 2840RPM. 
Nếu độ mở của governor valve lớn hơn 95%, và thông số hơi làm việc cũng không đạt yêu cầu trên, nguồn hơi dự phòng phải được chuyển đổi. Khi tốc độ của turbine bơm cấp được điều khiển bởi changeover valve, giá trị sai lệch giữa tốc độ thực và tốc độ yêu cầu sẽ được tính ra, tính toán bởi PID, đưa ra một tín hiệu yêu cầu mở valve đến changeover valve. Governor valve hạ áp sẽ mở toàn phần ở cùng thời điểm của độ mở changeover valve, valve một chiều cửa trích trên đường ống đưa hơi vào cũng được đóng một cách tự động, và chuyển đổi hơi vào turbine bơm cấp đến nguồn hơi dự phòng. Khi tốc độ turbine bằng tốc độ mục tiêu, độ mở của tín hiệu phản hồi giống như tín hiệu độ mở của changeover valve, dầu vào, dầu thoát của motor servo và độ mở của changeover valve giữ không đổi. 
Khi tải turbine tăng, thông số nguồn hơi làm việc và thông số nguồn hơi dự phòng cũng tăng theo. Tải turbine tăng từ tải thấp đến điểm chuyển đổi nguồn hơi, thông số hơi làm việc có thể đáp ứng yêu cầu tải turbine cho việc cấp nước, vì vậy nguồn hơi làm việc nên được chuyển đổi. Nếu thông số nguồn hơi dự phòng tăng lên, changeover valve sẽ được đóng dần dần để đáp ứng yêu cầu tải turbine cho việc cấp nước, sự thay đổi sẽ bắt đầu, hơi cửa trích hơi số 4 sẽ được mở ra một cách tự động trong suốt quá trình chuyển đổi, cho đến khi thay đổi kết thúc và changeover valve đóng hoàn toàn, tốc độ của turbine bơm cấp được điều khiển bởi governor valve hạ áp.

Saturday, August 22, 2020

Các yếu tố ảnh hưởng đến chân không bình ngưng

Hệ thống chân không bình ngưng

Chân không bình ngưng giảm chậm

- Không khí lọt vào hệ thống chân không;
- Lưu lượng nước làm mát tuần hoàn qua bình ngưng giảm;
- Xiphon ở các đường ống nước tuần hoàn bị giảm;
- Mức nước trong bình ngưng tăng;
- Giảm lưu lượng nước tuần hoàn do bị bẩn và bị tắt nghẽn ống titan bình ngưng hoặc mặt sàn hộc nước bình ngưng và bộ lọc kiểu quay đầu vào;
- Các van của hệ thống chân không bình ngưng vận hành không đúng;
- Các van bypass hạ áp mở trong khi vận hành;
- Bơm chân không làm việc không tốt;
- Mức nước bình phân ly bơm chân không thấp.

Chân không bình ngưng giảm nhanh

- Các bơm tuần hoàn ngừng;
- Các bơm nước ngưng ngừng;
- Mất hơi chèn;
- Hệ thống chân không bình ngưng bị hở nhiều;
- Van phá chân không bình ngưng bị lỗi mở;
- Bypass hạ áp vận hành không đúng

Friday, August 21, 2020

Tìm hiểu về bộ hâm nước (Economizer)

Bộ hâm nước (Economizer) là gì?

Bộ hâm nước là bề mặt nhận nhiệt, bố trí trong đường khói đối lưu, tận dụng nhiệt của khói để gia nhiệt cho nước cấp.
Sơ đồ cấu trúc tổng thể lò bao hơi đốt than phun

Công dụng của bộ hâm nước trong lò hơi?

  1. Hấp thụ nhiệt lượng của khói có nhiệt độ thấp để giảm nhiệt độ khói thải, tăng hiệu suất lò hơi, tiết kiệm nhiên liệu đốt.
  2. Do nước cấp trước khi đi vào dàn ống sinh hơi, được gia nhiệt ở bộ hâm nước nên giảm được nhiệt lượng hấp thụ của dàn ống sinh hơi, nên bộ hâm nước giảm được diện tích bề mặt dàn ống sinh hơi, có giá thành cao hơn.
  3. Nâng cao nhiệt độ nước vào bao hơi, giảm độ chênh nhiệt độ giữa nước cấp và thành bao hơi, giảm ứng suất nhiệt trong thành bao hơi, cải thiện điều kiện làm việc của bao hơi, kéo dài tuổi thọ của bao hơi. 
Monday, July 27, 2020

Có mấy phương pháp điều chỉnh nhiệt độ hơi tái nhiệt?

Các phương pháp điều chỉnh nhiệt độ hơi tái nhiệt.

Sơ đồ phun giảm ôn hơi quá nhiệt/tái nhiệt

1. Phương pháp điều chỉnh bằng damper khói

Đây là phương pháp được dùng phổ biến để điều chỉnh nhiệt độ hơi tái nhiệt. Thông qua việc điều chỉnh độ damper khói, sẽ điều chỉnh được lưu lượng khói đi trong đường khói, do đó điều chỉnh được nhiệt độ hơi tái nhiệt. Ưu điểm của phương pháp này là kết cấu đơn giản, dễ vận hành; khuyết điểm là quan hệ giữa nhiệt độ hơi tái nhiệt và độ mở damper không tỉ lệ tuyến tính, nên ảnh hưởng khó khăn đến việc điều chỉnh. Ngoài ra damper cần chế tạo từ vật liệu chịu nhiệt để chống biến dạng tránh gây kẹt, và độ nhạy điều chỉnh không cao.

2. Áp dụng tái tuần hoàn khói

Nội dung của phương pháp là sử dụng quạt tái tuần hoàn khói để hút một phần khói đuôi lò, đưa trở về buồng đốt, để thay đổi lượng nhiệt hấp thụ của bộ quá nhiệt và bộ tái nhiệt, do đó điều chỉnh được nhiệt độ hơi tái nhiệt. Ưu điểm của phương pháp này là dải điều chỉnh rộng, các thí nghiệm cho thấy rằng, khi thay đổi lượng khói tái tuần hoàn 1% sẽ làm nhiệt độ hơi tái nhiệt thay đổi 2 độ C. Ngoài ra còn tiết kiệm được bề mặt hấp thụ nhiệt của bộ tái nhiệt, đáp ứng điều chỉnh nhanh, và có tác dụng phân bố đều phụ tải nhiệt buồng đốt; khuyết điểm là cần dùng quạt tái tuần hoàn khói chịu nhiệt độ cao, làm tăng vốn đầu tư và tiêu hao điện tự dùng. Khi đốt than nhiều tro và ít chất bốc, sẽ làm tăng mài mòn và bám bẩn bề mặt đốt, khó ổn định cháy.

3. Thay đổi tâm ngọn lửa trong buồng đốt

Khi thay đổi tâm ngọn lửa trong buồng đốt, có thể thay đổi tỉ lệ nhiệt truyền bằng đối lưu và bức xạ, do đó điều chỉnh được nhiệt độ hơi tái nhiệt. Các phương pháp thay đổi tâm ngọn lửa trong buồng đốt là: Thay đổi góc nghiêng vòi đốt, thay đổi phụ tải các tầng vòi đốt, thay đổi lượng gió cấp 2 ở trên và dưới vòi đốt.   

4. Sử dụng bộ trao đổi nhiệt hơi-hơi

Nội dung của phương pháp là dùng bộ trao đổi nhiệt hơi-hơi để dùng hơi quá nhiệt để gia nhiệt cho hơi tái nhiệt. Khi phụ tải thấp, tăng lượng hơi tái nhiệt đi qua bộ trao đổi nhiệt, để tăng nhiệt độ hơi tái nhiệt.

5. Sử dụng bộ phun giảm ôn

Do việc dùng bộ phun giảm ôn để điều chỉnh nhiệt độ hơi tái nhiệt sẽ làm giảm hiệu suất nhiệt của tổ máy, nên người ta ít dùng bộ phun giảm ôn làm phương tiện chính để điều chỉnh nhiệt độ hơi tái nhiệt. Nói chung các bộ tái nhiệt chỉ dùng bộ phun giảm ôn để vi chỉnh nhiệt độ hơi hoặc để phun nước trong trường hợp sự cố.
Sunday, July 26, 2020

Hiện tượng xỉ bám nhiều và dày ở vị trí thấp nhất của các giàn ống bộ quá nhiệt mành (Platen SH)

Hiện tượng bám xỉ khu vực quá nhiệt mành

Qua kiểm tra các giàn ống của bộ quá nhiệt mành phát hiện xỉ bám nhiều và dày ở vị trí thấp nhất của các giàn ống này, thấy có xỉ bám nhiều và dày, nhận dạng bằng cảm quan đánh giá xỉ không quá cứng.
Xỉ bám nhiều ở khu vực quá nhiệt mành

Nguyên nhân xảy ra hiện tượng bám xỉ khu vực quá nhiệt mành

Do hệ thống thổi bụi vận hành không hiệu quả và một phần do chế độ cháy chưa hợp lý.

Hệ thống thổi bụi vận hành không hiệu quả

Các vòi thổi bụi khu vực quá nhiệt mành không vận hành trong thời gian dài làm xỉ tích tụ và bám vào các giàn ống. 
Các thông số hơi thổi bụi thấp hơn thiết kế nên làm sạch không hiệu quả gây tích tụ và bám xỉ nhiều vào các giàn ống quá nhiệt mành. 

Chế độ cháy chưa hợp lý

Ở bộ quá nhiệt mành có hiện tượng bám xỉ ở các giàn ống phía dưới một phần do chế độ đốt cháy không đúng thiết kế, tỷ lệ cháy của nhiên liệu ở các tầng vòi đốt và tầng khử NOx không hợp lý.  Cụ thể nhiên liệu cháy nhiều ở khu vực khử NOx nhiều dẫn đến nhiệt độ khói tại điểm thấp của các giàn ống Platen SH cao gây bám xỉ. 
Nguyên nhân dẫn đến chế độ cháy không hợp lý chủ yếu đến từ hệ thống khói gió; hệ thống khói gió cung cấp oxy cho quá trình cháy. Demand lưu lượng gió vào các tầng vòi đốt được tính toán từ lưu lượng nhiên liệu (than + dầu) của tầng vòi đốt tương ứng, demand lưu lượng gió vào các tầng khử NOx được tính toán dựa vào giá trị Boiler Master. Các giá trị lưu lượng gió tính toán sau đó được bù trừ theo lượng Oxy còn lại trong khói vào bộ SCR qua giá trị Oxygen Correction.
Do SA damper các tầng khử NOx kẹt ở vị trí mở cao nên không thể giảm lượng gió theo điều chỉnh của OXYGEN CORRECTION như thiết kế. Mặc khác các tầng vòi đốt bên dưới còn vận hành ở chế độ Auto sẽ bị ảnh hưởng của giá trị OXYGEN CORRECTION làm giảm lưu lượng gió. Như vậy gió cấp vào các tầng vòi đốt sẽ giảm, gió cấp vào tầng khử NOx sẽ vẫn cao dẫn đến tỷ lệ cháy của nhiên liệu bị dịch chuyển lên phía trên. Nhiệt độ phía trên lò sẽ cao hơn gây đóng xỉ ở các giàn ống Platen SH.